Trong Công giáo, bên cạnh các tổ chức mang tánh cách hành chánh điều khiển các hoạt động của Giáo Hội, như đã trình bày ở các phần trên, còn...
Trong Công giáo, bên cạnh các tổ chức mang tánh cách hành chánh điều khiển các hoạt động của Giáo Hội, như đã trình bày ở các phần trên, còn có tổ chức một hệ thống các Dòng Tu hoạt động rất mạnh.
Theo Giáo luật, Dòng Tu (L’Ordre des religieux) là một tập thể tín đồ từ bỏ cuộc sống thế tục để cống hiến trọn đời cho Đạo pháp, góp phần cùng Giáo Hội cứu rỗi nhơn loại.
Khi chấp nhận hiến thân trọn đời cho Đạo, tín đồ phải lập thệ:
+ Thanh khiết, là giữ cuộc đời độc thân trọn vẹn.
+ Thanh bần, là giữ cuộc đời trong sạch nghèo nàn.
+ Vâng phục, là nghe lời bậc Bề trên dạy dỗ.
+ Huynh đệ, là sống trong đại gia đình với tình anh em.
- Tổ chức các Dòng Tu:
Mỗi Dòng Tu có hiến chương riêng và qui chế hoạt động riêng. Hệ thống tổ chức trong Dòng Tu thường có 3 cấp:
+ Bề trên Dòng, còn gọi là Bề Trên Cả hay Bề Trên Tổng Quyền.
+ Tỉnh Dòng.
+ Các Tu viện và các cơ sở hoạt động.
Mỗi Dòng Tu thường tổ chức Đại Hội định kỳ để tổng kết và đánh giá tình hình hoạt động, đề ra chương trình, thay đổi nhơn sự lãnh đạo.
- Phân loại các Dòng Tu:
Có 2 cách phân loại các Dòng Tu:
+ Phân loại theo Qui chế: 2 loại.
* Dòng Tu theo Qui chế Tòa Thánh, là những Dòng Tu lớn, có từ lâu đời, mang tính chất quốc tế, đặt cơ quan Trung ương tại Tòa Thánh La Mã, như các Dòng Tu: Bơ-noa, Đô-mi-ni-cô, Phăn-xi-cô, Dòng Chúa Cứu thế, .
* Dòng tu theo Qui chế Giáo Phận, thuộc quyền điều khiển trực tiếp của Giám Mục Giáo Phận. Một số Dòng Tu theo Qui chế Giáo Phận ở VN như: Dòng Thánh Tâm ở Giáo Phận Huế, Dòng Giu-se ở Giáo Phận Nha Trang, . .
- Phân loại theo cách hoạt động: 2 loại.
+ Dòng Tu Chiêm niệm (Contemplatif) chuyên chú vào việc tụng kinh, trầm tư chiêm nghiệm (Thiền định) và tự lao động để sinh sống. Những tu sĩ trong Dòng Chiêm niệm thường không ra ngoài hoạt động, chỉ ở trong các nhà tu kín.
Một số Dòng Tu Chiêm niệm như: Dòng Bơ-noa, Dòng Ca-mê-lô, . . .
+ Dòng Tu hoạt động (Actif) chuyên chú về các hoạt động xã hội dưới nhiều hình thức:
* Hình thức tôn giáo: như giảng dạy Giáo lý, Thần học, Truyền giáo.
* Hình thức từ thiện: như Giáo dục, Y tế, Cứu trợ.
Các Dòng nầy như: Dòng Tên, Dòng Đô-mi-ni-cô, . . .
- Phân loại theo Giới tính: Nam và Nữ phái.
Phụ nữ Công giáo chỉ được tham gia vào các Dòng Tu, không được huấn luyện để trở thành Linh Mục, Giám Mục, lãnh đạo các cấp hành chánh của Giáo Hội. Đây cũng là một thiệt thòi lớn cho Nữ phái Công giáo.
Các Dòng Tu chỉ gồm toàn là tu sĩ Nam phái, hoặc gồm toàn Nữ phái, không có Dòng Tu nào vừa có Nam tu sĩ, vừa có Nữ tu sĩ.
Các tu sĩ trong Dòng Tu được phân làm 2 bực: Các tu sĩ thường (Nam gọi là Frère: Huynh, Nữ gọi là Soeur [Bà sơ]: Tỷ), và bên trên là các Linh Mục bên Dòng Tu Nam phái, và Bà Bề Trên bên Dòng Tu Nữ phái.
Các Linh Mục Dòng được đào tạo như các Linh Mục bên Giáo triều và có các hoạt động như Linh Mục Giáo triều, nhưng chỉ hoạt động trong Dòng Tu mà thôi. Tuy nhiên, cũng có Dòng Tu không có Linh Mục, như Dòng Tu La-san (Lasal).
- Một số Dòng Tu Nam:
+ Dòng BƠ-NOA (Ordre de Saint Benoit, viết tắt OSB)
Đây là Dòng Tu cổ nhất của Giáo Hội La Mã, do Benoit de Nurci lập ra từ năm 529 ở Monte-Cassino (Italia). Dòng Benoit ra đời đưa các tu sĩ sống độc thân vào cuộc sống tập thể trong các Tu Viện, mở đầu thời kỳ Chủ nghĩa Tu Viện Thiên Chúa giáo.
Chủ đích của Dòng Bơ-noa là chiêm niệm, lao động chân tay, nghiên cứu Thần học và Phụng vụ.
Vào thời Trung cổ, Dòng Bơ-noa có những đóng góp quan trọng trong việc hướng dẫn dân chúng Âu Châu trồng trọt, chăn nuôi, chế thuốc trị bịnh.
Y phục của Tu sĩ Dòng nầy là áo chùng đen, thắt lựng da, ngoài phủ vải đen.
Dòng Bơ-noa truyền vào VN từ năm 1935, có các cơ sở ở Đà Lạt và Huế.
+ Dòng ĐÔ-MI-NI-CÔ (Odre de Dominicains (OD):
Dòng này còn gọi là Dòng Đa Minh do Dominique lập năm 1206 ở Toulouse nước Pháp.
Chủ đích của Dòng là thuyết giảng, nên còn gọi là Dòng Thuyết giảng (Odre des Prêcheurs hay Odre des Frères Prêcheurs), để khuyến tu kẻ ngoại đạo trong các cuộc Thánh chiến chống Hồi giáo.
Y phục của các tu sĩ Dòng nầy là áo chùng trắng và khăn phủ ngoài cũng trắng.
Dòng Đô-mi-ni-cô truyền vào VN vào thế kỷ 16 do các Giáo sĩ Dô-mi-ni-cô Tây Ban Nha. Họ giảng đạo và điều khiển Địa Phận Bùi Chu, sau đó tách ra thành Địa Phận Thái Bình, Hải Phòng, Bắc Ninh.
Năm 1930, có thêm các Giáo sĩ Dòng Đô-mi-ni-cô vào truyền giáo đến Lạng sơn.
Năm 1954, Các Giáo sĩ Dòng nầy chuyển vào xây dựng các cơ sở ở miền Nam VN.
+ Dòng PHĂN-XI-CÔ (Ordre des Franciscains (OF):
Dòng Phăn-xi-cô do Francois lập năm 1209 tại Assises nước Italia, chủ trương việc giảng thuyết chỉ được xem như là một trong những hoạt động từ thiện, như chăm sóc người tàn tật, kẻ đau ốm cô độc.
Y phục của các Tu sĩ Dòng nầy giống như của Dòng Bơ-noa, nhưng màu dà, có thắt lưng, chân đi dép.
Dòng Phănxicô truyền vào VN với danh nghĩa là “Anh em hèn mọn” (Odre des Frères Mineurs, viết tắt là OFM), lập cơ sở đầu tiên ở Vinh, Thanh Hóa, sau đó là Nha Trang và Sàigòn.
+ Dòng TÊN (Odre de Jésuites: OJ):
Dòng Tên tức là Dòng Jésus, do một người lính Thánh giá người Tây Ban Nha tên Igntis lập ra năm 1584, để chống lại phong trào cải cách tôn giáo, đồng thời đáp ứng nhu cầu truyền giáo ra nước ngoài của Giáo Hội. Dòng Tên đặt dưới sự điều khiển trực tiếp của Đức Giáo Hoàng, được chọn lọc để tiếp nhận những người quí phái, những nhà trí thức và khoa học. Thực tế, Dòng Tên là tuyến đầu phòng thủ của Giáo Hội, có mặt khắp nơi trên thế giới, chi phối được nhiều chánh phủ của nhiều nước. Năm 1759, Dòng Tên bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha; năm 1762, và năm 1820 Dòng Tên bị trục xuất khỏi nước Pháp.
Năm 1773, Giáo Hoàng Clê-măng giải tán Dòng Tên, và đến năm 1841, Giáo Hoàng Piô VII mới cho phục hồi lại.
Hiện nay, Dòng Tên có mặt tại 100 nước trên thế giới với khoảng 30.000 Giáo sĩ.
Y phục của Giáo sĩ Dòng Tên giống hệt như y phục của Linh Mục Giáo triều.
Giáo sĩ Dòng Tên vào VN rất sớm, vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Dòng Tên mất dần ảnh hưởng tại VN khi Đức Giáo Hoàng cho phép Hội Thừa Sai Paris (MEF) được độc quyền truyền giáo tại VN.
Năm 1957, Tổng Thống Ngô đình Diệm mới cho Dòng Tên trở lại hoạt động tại Miền Nam VN.
+ Dòng KHỔ TU (Ordre de Trappistes: OT):
Dòng Khổ Tu còn gọi là Dòng Xi-tô vì được thành lập tại Citeaux nước Pháp vào năm 1098 bởi Robert de Mondesme và sau nầy được Benard củng cố và bổ sung.
Dòng Khổ Tu đề cao cuộc sống ép xác kham khổ, không ăn thịt cá, đi chân đất, lao động chân tay, chuyên bề chiêm niệm.
Dòng Khổ Tu đào tạo được nhiều Giáo Sĩ cao cấp cho Giáo Hội, là những bậc chơn tu. Riêng trong thế kỷ 17, đào tạo được 11 Hồng Y và 75 Giám Mục.
Y phục của Dòng Khổ Tu là áo chùng trắng, thắt lưng da, tấm vải phủ ngoài màu đen.
Tại VN, vào năm 1920, một Linh Mục người Pháp, dựa trên qui chế Dòng Khổ Tu, lập ra tại Quảng Trị, tự coi là một nhánh của Dòng Bơ-noa, sau nầy sáp nhập với các Giáo Sĩ Dòng Khổ Tu từ Pháp sang, gọi là Dòng Phước Sơn.
Việc sáp nhập trên không được Bề Trên của Dòng Khổ Tu tại Pháp hài lòng, nên họ đưa thêm một số Giáo Sĩ khác qua lập những cơ sở khác như ở Mỹ Ca, Châu Sơn, Phước Lý . . .
+ Dòng CHÚA CỨU THẾ (Congrégation du Très Saint Redemptoriestes, viết tắt là: CSR):
Dòng Chúa Cứu Thế do Alphonse de Liguori lập ra ở Naples (Ý) vào thế kỷ 18 trong hoàn cảnh cuộc Cách mạng Tư sản ở các nước Âu Châu liên tiếp nổ ra. Dòng Chúa Cứu Thế phát triển rất nhanh ở Châu Âu và truyền sang Bắc Mỹ.
Giáo sĩ Dòng nầy thường đi thuyết giảng Giáo lý và đạo đức ở các Xứ đạo trong tuần làm phúc, và đi truyền đạo ở các vùng chưa có Công giáo.
Y phục của Giáo sĩ Dòng Chúa Cứu Thế có màu đen, cổ trắng, thắt lưng vải, đeo tràng hạt.
Dòng nầy vào VN năm 1925, chủ yếu do các Giáo sĩ người Canada, lập các cơ sở tập trung ở Sàigòn, Nha trang, Vĩnh Long, Đà Lạt.
+ Dòng LA-SAN (Ordre des Lasaliens, viết tắt là OL) :
Dòng Lasan do Jean Baptist de Lasal lập ra, chuyên dạy học trò ở bậc Trung học, nên còn được gọi là Dòng Sư Huynh, tiếng Pháp là: Ordre des Frères d’Écoles Chrétiennes, viết tắt: OFEC.
Y phục của Giáo sĩ Dòng Lasan giống như Linh Mục của Giáo Hội, có miếng vải trắng trước cổ.
Dòng Lasan vào VN qua các Giáo sĩ người Pháp. Trước đây họ mở nhiều Trường Trung học dạy chương trình Pháp như trường Lasan Taberd ở Sàigòn, trường Pellerin ở Huế, trường Pujinier ở Hà Nội.
+ Dòng BOSCO (Ordre de Salesiens, viết tắt là OS):
Dòng Bosco do Don Bosco lập ra ở nước Ý vào cuối thế kỷ 18. Chủ đích của Dòng là dạy nghề và dạy văn hóa cho thiếu niên nghèo, thất học.
Dòng Bosco vào VN vào khoảng năm 1940, lập cơ sở tại Gò Vấp Sàigòn, sau phát triển lên Đà Lạt.
+ Dòng GIOAN THIÊN CHÚA (Ordre des Hospita-liers, viết tắt là OH):
Dòng nầy được lập ra từ thế kỷ 14 với chủ đích chữa bịnh bằng Đức Tin vào Thiên Chúa và tình thương yêu chăm sóc của thầy thuốc.
Y phục của Giáo sĩ Dòng Gioan Thiên Chúa giống y như Giáo sĩ Dòng Bơ-noa.
Dòng nầy vào VN năm 1938, do một nhóm tu sĩ người Canada, lập ra những cơ sở đầu tiên ở Sài gòn và Hà Nội. Sau năm 1954, các cơ sở ở HàNội dời vào Đà Nẳng và Biên Hòa.
- Một số Dòng Tu Nữ:
+ Dòng BƠ-NOA: Dòng Bơ-noa do Benoit lập ra từ thế kỷ thứ 5, thật tế nó là Dòng Tu dành cho phụ nữ chuyên về Chiêm niệm. Nữ tu Dòng Benoit có y phục giống như bên Nam phái, nhưng thêm khăn đen và lúp che đầu.
Dòng Nữ tu Benoit sang VN vào năm 1935, do các Nữ tu người Pháp, lập cơ sở đầu tiên tại Ban Mê Thuộc, sau chuyển về Thủ Đức.
+ Dòng OISEAUX: tức Dòng Nữ Tu Thánh Augustine, nhưng gọi theo tiếng Pháp là: Couvent des Oiseaux.
Chủ đích của Dòng Nữ Tu Oiseaux là giáo dục văn hóa và nghề nghiệp cho phụ nữ trở thành những Nữ trí thức. Dòng Nữ Tu nầy sống phóng khoáng, giao tiếp bình thường với người bên ngoài, nên y phục của họ cũng bình thường, chỉ thêm cái khăn phủ đầu màu xám.
Dòng Oiseaux truyền sang VN từ năm 1950 do các Nữ Tu người Pháp, có mở cơ sở là trường học tại Sàigòn.
+ Dòng PHAOLÔ :
Dòng Nữ Tu Phaolô được lập ra ở Pháp, hoạt động theo gương của Thánh Phaolô, với nội dung chủ yếu là: Giáo dục, Y tế, Xã hội.
Y phục của Dòng Nữ Tu nầy toàn màu trắng, lúp che đầu cũng trắng (nên gọi là Bà Sơ trắng), đôi khi cũng mặc y phục đen, nhưng cái lúp trên đầu vẫn giữ màu trắng.
Dòng Phaolô vào VN vào năm 1860, lập ra các Bệnh viện, Trường học, Cô nhi viện, ở Sàigòn, Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Sau năm 1954 thì dời vào miền Nam.
+ Dòng BÁC ÁI VINH SƠN:
Dòng Nữ Tu Bác Ái Vinh Sơn do Vincent lập ra tại Paris nước Pháp vào thế kỷ 17 trong hoàn cảnh nước Pháp bị loạn lạc. Chủ đích của Dòng là công tác cứu tế xã hội.
Y phục của các Nữ Tu Dòng nầy có màu xanh, lúp che đầu cũng màu xanh, nên gọi là các Bà Sơ xanh.
Năm 1935, một số Nữ Tu Dòng Bác ái Vinh sơn đến lập cơ sở tại Đà Lạt, Sàigòn, và phát triển ra các nơi khác như Nha Trang, Ban Mê Thuộc.
+ Dòng PHĂN-XI-CÔ:
Dòng Nữ Tu Phănxicô do Nữ Tu người Pháp lập ra từ thế kỷ 18, chọn các hoạt động từ thiện và dạy học.
Y phục của Dòng nầy có màu tro, có lúp che đầu.
Dòng Nữ Tu Phănxicô lập cơ sở đầu tiên ở VN là Trại Cùi Qui Nhơn vào năm 1930, sau đó có lập những cơ sở từ thiện khác ở Sàigòn và Đà Lạt.
+ Dòng ĐỨC BÀ:
Dòng Nữ Tu Đức Bà lập ra ở nước Pháp vào thế kỷ 18. Chủ đích của Dòng là lo dạy học và công tác xã hội.
Y phục của các Nữ Tu Dòng nầy giống như Dòng Phănxicô nhưng có tấm vải trắng phủ từ sau ra trước, có viền xanh, lúp đầu màu trắng.
Dòng Đức Bà lập cơ sở đầu tiên ở Hà Nội, năm 1934. Sau đó chuyển vào Nam lập ở ĐàLạt, Nha Trang, Phan Thiết.
+ Dòng MẾN THÁNH GIÁ:
Dòng Nữ Tu Mến Thánh Giá do các Linh Mục Dòng Tên lập ra cùng một thời kỳ với các tổ chức Thầy giảng, từ thế kỷ 17 và 18. Trong thời kỳ đầu, các Nữ Tu sống đơn giản, chủ yếu là cầu nguyện, giúp việc dạy Giáo lý và một số công việc khác của Giáo Hội.
Sau nầy, qua nhiều lần cải cách, hình thành các qui chế chặt chẽ, có lời khấn, có trường học và trường tập.