Nếu có người bảo với bạn là Chúa Jesus đã cưới vợ, có con, và hậu duệ của Người đang sống cùng với chúng ta ngày nay, bạn sẽ phản ứng như th...
Nếu có người bảo với bạn là Chúa Jesus đã cưới vợ, có con, và hậu duệ của Người đang sống cùng với chúng ta ngày nay, bạn sẽ phản ứng như thế nào? Đấy là bí mật bị chôn vùi suốt 2.000 năm nay mà cuốn sách The Da Vinci Code(Mật mã Da Vinci) của Dan Brown vừa… bật mí.
Không ai biết mối quan hệ vợ chồng giữa Jesus Christ với Mary Magdalene có thật hay không, bởi vì đến nay các sử gia vẫn tiếp tục tranh cãi. Đây cũng không phải là điều hoàn toàn mới mẻ, bởi vì thuyết về hậu duệ của Chúa đã tồn tại hàng thế kỷ nay. Vậy thì đâu là nhân tố tạo nên thành công của Dan Brown, khi tiểu thuyết của ông bán được hơn 6 triệu bản, thậm chí còn đang được dựng phim? Đấy là ông đã đưa ra những văn bản Thiên Chúa giáo bị lãng quên, trong đó có những văn bản đi ngược lại với Kinh thánh truyền thống. Nói cụ thể hơn, Mật mã Da Vinci đã làm sống lại cuộc tranh cãi về một trong những nhân vật bí ẩn trong lịch sử Thiên Chúa giáo: Mary Magdalene.
Bị Nhà thờ mô tả là gái điếm, Mary Magdalene là một trong những tông đồ thân cận với Chúa. Nhân vật này xuất hiện trong bức tranh Bữa tối cuối cùng của danh hoạ Leonard Da Vinci, ngay bên cạnh Chúa Jesus. Cả bốn bộ Phúc âm trong kinh Tân ước đều nói rằng Mary hiện diện trong cả buổi Chúa bị đóng đinh câu rút lẫn trong ngôi mộ trống vào buổi sáng Chúa phục sinh. Tuy Kinh thánh không nói gì nhiều về nhân vật này nhưng chúng ta vẫn có thể tìm thấy một số manh mối trong kinh Phúc âm về Mary. Ra đời từ thế kỷ II do một dòng Thiên Chúa giáo, đây là phúc âm duy nhất mang tên một phụ nữ còn sót lại. Phúc âm về Mary được ghi nhận là một nguồn thông tin xác thực, ngay cả trong Nhà thờ, mặc dù độ xác thực và tầm quan trọng của nó vẫn còn là đề tài gây tranh cãi đối với các nhà nghiên cứu lịch sử và tôn giáo.
Theo Karen King, một giáo sư lịch sử thuộc ĐH Harvard, Mary Magdalene và Jesus Christ chưa bao giờ làm lễ cưới – không có văn bản nào xác nhận họ là vợ chồng cả. Nhưng Mary thực sự là một tông đồ được Jesus truyền thụ nhiều tư tưởng thần học, và cô đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của Thiên Chúa giáo thời kỳ đầu. King nói: “Bản phúc âm này đã thay đổi kiến thức truyền thống của chúng ta về Mary Magdalene và Nhà thờ. Nó cho thấy Mary hiểu rõ lời dạy của Chúa hơn bất cứ tông đồ nào khác và có khả năng thuyết giáo họ.”
Bản thảo Phúc âm về Mary được tìm thấy trong một cuốn sách ở thế kỷ XV, làm bằng giấy cói, viết bằng chữ Coptic (thứ chữ phổ biến trong Giáo hội Ai Cập). Một học giả người Đức tình cờ mua được cuốn sách quý này tại một phiên chợ đồ cổ ở Cairo năm 1896, sau đó được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1955. Các bản phúc âm khác về Mary cũng đều được phát hiện ở Ai Cập, ra đời từ thế kỷ III và viết bằng chữ Hy Lạp cổ. Theo đánh giá của King, bản Phúc âm về Mary đầu tiên được viết vào khoảng năm 125 đến 175 sau CN. Trong lúc đó, các bản phúc âm trong Kinh Tân ước lại được viết vào thế kỷ I.
Do bị mất khoảng 10 trang, bản Phúc âm về Mary chỉ còn một nửa. Những gì còn lại cho thấy rằng đây là lời dạy của Chúa về cái gọi là đường đến “tâm linh nội thể” – linh hồn bên trong con người. Trong số này, có những đoạn đối lập hoàn toàn với lời dạy trong Kinh Tân ước. King cho biết: “Trong Phúc âm về Mary có một số đoạn mang âm hưởng dị giáo. Chẳng hạn, không hề có đoạn nào nói đến sự phục sinh về thể xác mà chỉ có phục sinh về mặt linh hồn thôi, còn thể xác tan thành cát bụi hoặc trở về với hư vô. Phúc âm về Mary không coi sự khổ đau và cái chết của Jesus là con đường đi tới cuộc sống vĩnh hằng, thậm chí Jesus còn không hề nói chút nào đến tội lỗi. Trong khi đó, tâm điểm cái chết và sự phục sinh trong quan điểm thần giáo của Thiên Chúa giáo là tội lỗi và cứu rỗi thì bản phúc âm này không nhắc tới.”
Hầu hết tín đồ Thiên chúa giáo đều gắn liền với các bản phúc âm kinh điển (Matthew, Mark, Luke, John) và phản đối kịch liệt những văn bản phi kinh điển, chẳng hạn như Phúc âm về Mary, vốn bị coi là xúc phạm đến Kinh Tân ước. Tuy vậy, chúng ta cũng có thể học hỏi được ít nhiều từ chúng, bởi chúng cung cấp nhiều thông tin xác thực về Thiên Chúa giáo buổi ban đầu và những cuộc tranh cãi quyết liệt để bảo vệ quan điểm.