Kito giáo La mã, Phản thệ giáo, Hồi giáo chỉ là đạo thờ bò cải tiến Gần đây một số con chiens cuồng vào nhà tôi bình luận tà...
Kito giáo La mã, Phản thệ giáo, Hồi giáo chỉ là đạo thờ bò cải tiến
Gần đây một số con chiens cuồng vào nhà tôi bình luận tàm xàm, nhát ma, rồi bốc thơm cho chúa Dê cha, Dê con của nó, rồi cố tình đánh lừa dư luận nâng tầm Dê cha, Dê con lên ngang hàng với các bậc Thánh của các tôn giáo Á Đông. Chính vì vậy tôi phải viết bài này để khai sáng cho chiens về Thiên Chúa mà chiens đang thờ phụng thật ra là ai. Vì bài này dài nên tôi có phần tóm tắt để các bạn nắm ý chính.
TÓM TẮT:
— Tất cả các đạo thờ Thiên Chúa như đạo Do thái, đạo Ki tô(Kito La Mã, Anh giáo, Chính thống giáo, Phản thệ giáo) và cả đạo Hồi đều là những biến thể của đạo thờ Thần Bò IL của Babylon cổ đại, truyền vào Do Thái thời Abraham đổi tên thành thần bò EL. Điều này được chứng minh qua rất nhiều tài liệu kể cả Kinh thánh Cựu ước, nhiều từ điển nỗi tiếng kể cả từ điển thần học và các bằng chứng khảo cổ.
— Vì Thiên Chúa là thần bò khát máu, cho nên những nghi lễ hiến tế đổ máu như giết chiên, cừu, giết trẻ con, giết người để lấy máu hiến tế dâng lên Thiên Chúa Thần Bò là điều cần thiết để Chúa Bò nguôi giận và tha tội. Việc Abraham giết con trai Isac trong Cựu ước và sau này là việc Dê Sù hiến tế trong Tân Ước để Chúa Bò EL tha tội cũng nằm trong ý nghĩa này. Ngày nay, Bí Tích Mình Thánh Chúa phản ánh việc con chiens ăn thịt uống máu Dê Sù để được “thánh hóa” nhưng thật ra là có nguồn gốc từ văn hóa dã man thờ bò và hiến tế của dân du mục.
TỔNG QUAN
Chúa cha Dê Hô Va(Jehovah hay Yahweh), thánh Allah của Hồi giáo đều có cùng một nguồn gốc từ Thần Bò IL của dân Babylon và du nhập vào dân tộc Do Thái từ thời Abraham khoảng năm 2000 TCN và đổi tên thành thần bò El. Người ta tin rằng thần EL thường hiện hình thành một con bò đực (The Bull EL hoặc EL the Bull).
Đến thời Môi-Sứt (Moses) năm 1250 TCN thì đạo thờ bò El biến thể thành đạo thờ Chúa khi Môi-Sứt viết Ngũ Kinh(Cựu Ước), và sau này Muhammad viết Quran sáng lập Hồi giáo vào thế kỷ thứ 7 cũng dựa trên thần bò EL của Cựu Ước. Vậy là tất cả các đạo thờ Thiên Chúa như đạo Do thái, đạo Ki tô (Kito La Mã, Anh giáo, Chính thống giáo, Phản thệ giáo) và cả đạo Hồi đều là những biến thể của đạo thờ bò El.
Đây là một sự thật lịch sử đã được chứng minh bởi các sử liệu giá trị bao gồm nội dung của Kinh thánh Cựu ước và các kết quả nghiên cứu đầy công phu của ngành khảo cổ. Vấn đề này cũng đã được trình bày rất rõ ràng trong các bộ Tự điển Bách khoa (Encyclopedia) lừng danh thế giới. Do Thái được coi là dân tộc được Chúa chọn vì nước này là quốc gia đầu tiên mang tên thần bò El.
Học giả Charlie Nguyễn Bùi Văn Chấn, cựu thẩm phán Chế độ ngụy Sài gòn và theo đạo dòng có tổ tiên từng gia nhập chúa giáo ngay từ những ngày đầu các giáo sỹ truyền giáo sang Việt Nam đã dày công nghiên cứu và đã dẫn chứng một cách đầy đủ và khách quan về đạo thờ bò El và các diễn tiến biến thể (transformation) của nó. Dưới đây là phần chứng minh của ông.
- The Oxford Illustrated History of the Bible, edited by John Rogerson, Oxford Uuniversity press, xuất bản năm 2001, trang 7:
Trong tài liệu cổ sử Ai cập, được viết dưới triều đại Pharaoh Merneptah (1222-1214 TCN) có nói đến nước Do Thái dưới quốc hiệu ISRAEL. Sử liệu này giải thích ISRA là cai trị (to rule), El là thần bò El. Do đó, ISRAEL có nghĩa là một quốc gia được cai trị bởi thần bò El. - Theological Dictionary of the Bible (Tự điển Thần học về Thánh Kinh), edited by Walter A. Edwell, Baker Book xuất bản, trang 289-299:
Người Do Thái thờ thần bò El từ lâu đời, cho nên El có nghĩa là “Thiên Chúa của Do thái” (El is God of Israel) hoặc “Thiên Chúa của Abraham”. Ngôn ngữ Hebrew gọi Thiên Chúa El bằng nhiều danh từ: El, Eloah, Elim, Elohim. Vì họ tin Thiên Chúa El thường hay xuất hiện ở các núi đá (Rock mountains) tiếng Hebrew là Shaddai, nên họ cũng gọi Thiên Chúa El là El-Shaddai. Các danh từ để gọi Thiên Chúa El nói trên đã được nhắc đi nhắc lại tới 2.250 lần trong các bộ sách Kinh Thánh của đạo Do Thái. Riêng trong các bài Thánh Vịnh (Psalms) của David, tên của Thiên Chúa El đã được nhắc tới 238 lần! (Ghi chú: David sau Môi-Sứt 300 năm.) - The Illustrated Guide to the Bible, by J. R. Porter, Oxford University Press 1995, trang 45:
Trước khi đặt tên nước là Do Thái là Israel, Jacob(cháu nội của Abraham) đã đến thị trấn Luz của xứ Canaan. Tại đây, Jacob nằm mơ được thiên thần cho một cái thang. Jacob đã leo thang lên tới thiên đàng và được gặp Thiên Chúa El mặt đối mặt. Khi tỉnh dậy, Jacob đã đổi tên thị trấn Luz thành Beth-El, có nghĩa là “Nhà của Chúa” (House of El). Câu chuyện về giấc mơ của Jacob được kể lại trong Cựu ước (Genesis 28:12).
Do Thái không phải là nước duy nhất thờ thần El. Hầu hết các giống dân quanh vùng Canaan đều thờ thần El và rất nhiều thần khác. Tuy nhiên họ quan niệm đồng nhất với nhau ở chỗ tất cả đều coi thần El là vị thần cao nhất (The Highest God) và là cha của các thần (father of all gods). Abraham và dân tộc Do thái thời đó chưa có quan niệm Thiên Chúa là Duy nhất (Unity God) như quan niệm củ đạo Do thái sau này mà chỉ có quan niệm đơn giản: Thiên Chúa là vị thần mạnh nhất mà thôi.
Nơi trang 65, tác giả cho biết người Do Thái đã thờ thần El dưới hình tượng của một con bò vàng (the golden calf) khởi đầu từ thời Abrahm, Jacob cho đổi đời Mai-sen. Chính anh ruột của Môi-Sứt là Aaron đã điều động dân chúng gom góp nữ trang, nấu chảy đúc thành một con bò vàng để tôn thờ vào khỏang năm 1250 TCN (Exodus 32-33).
Aaron và tuyệt đại đa số dân Do Thái thời đó đều tin tưởng thần bò El chính là đấng Thiên Chúa đã cứu dân Do thái thóat vòng nô lệ của Ai cập. Sách Cựu ước Exodus 32:4 thuật lại lời tuyên bố của Araon trước bàn thờ tuợng bò vàng như sau: “Hỡi dân Israel, đây là Thiên Chúa của các người, đây chính là đấng đã đưa các người ra khỏi đất Ai cập”.
Trong lịch sử đạo Do thái, Môi-Sứt (Moses) là cái mộc chia đạo Do thái thành hai thời kỳ:
— Thời kỳ đầu từ Abraham (2000 TCN) đến Mai-sen (1250 TCN) kéo dài 750, đạo Do thái được gọi là Đạo Cũ, hoặc đạo Do thái trước Môi-Sứt (The pre-mosaic Judaism). Trong thời kỳ này, người Do thái gọi Thiên Chúa là El, Eloha hoặc Elohim và tôn thờ Ngài qua hình tượng con bò vàng.
— Từ thời Môi-Sứt (1250 TCN) đến nay, đạo Do thái được gọi là Đạo Mới hoặc đạo Do thái Môi-Sứt (Mosaic Judaism). Sự đổi mới quan trọng nhất của Môi-Sứt là công bố “Mười Điều Răn”, trong đó chủ yếu nhắm vào hai điểm: cấm thờ ảnh tượng bò vàng và cấm gọi tên Thiên Chúa là El, Eloa hoặc Elohim. Môi-Sứt bắt dân chúng phải gọi Thiên Chúa là Jehovah, có nghĩa là “Thiên Chúa của các tổ phụ” (God of fathers: Abraham, Isaac, Jacob). Mặc dầu Môi-Sứt rất tàn bạo và đã giết nhiều người bất tuân lệnh của y trong việc cải cách tôn giáo này, nhưng ngay trong sách Cựu ước cũng cho thấy tới 3 thế kỷ sau khi Môi-Sứt chết dân Do Thái vẫn tiếp tục thờ Thiên Chúa El với tượng bò vàng:
— Các bài Thánh vịnh của David vẫn gọi Thiên Chúa là Elohim.
— Các vua David, Solomon (thế kỷ 10 TCN) vẫn dùng tượng con bò làm biểu tượng cho Thiên Chúa Jehovah (1 King 12:28 = Bull represents Jehovah).
— Vua Jeroboam I (thế kỷ 9 TCN) là cháu nội của David lấp nhiều đền thờ Thiên Chúa El với tượng bò vàng từ thành phố Bethel đến thành phố Dan. - The New Encyclopedia Britannica (15 edition, Volume 4, trang 411)
Bộ Tự điển Bách khoa Britannica đã nối tiếng khắp thế giới từ lâu đời. Tự điển này đã dịch danh từ El như sau: “El là Thiên Chúa của giống dân Semetic (tức các chủng tộc Ả rập – Do thái) còn gọi là Con Bò Thần El, được coi là cha của các vị thần khác, ngoại trừ thần Baal. Các tác giả viết Kinh thánh Cựu ước đã dùng danh từ El vừa để gọi chung các thần thánh vừa như một danh từ đồng nghĩa với Jehovah”.
Điều khẳng định trên cho ta thấy Thiên Chúa Jehovah (Yahweh) mà Jesus gọi là “Cha ta ở trên trời” chính là Con Bò El (El the Bull = sysnonym for Jehovah!). Các sách Kinh thánh Tân ước xưng tụng Jesus là “con một của Đức Chúa Trời” (the only son of God) thực chất là con một của Thần Bò El. - New Larousse Encyclopedia of Mythology (Tân Tự điển Bách khoa Larousse và Huyền thoại, nguyên bản tiếng Pháp, bản dịch Anh ngữ do Premethus Press xuất bản, in lần thứ tư 1971, các trang 74-80):
Theo các bản văn viết bằng chữ cuneiform của xứ Babylon thuộc niên đại 1400 TCN trên những tấm đất sét phơi khô (hiện lưu trữ tại Bảo tàng viện Louvre ở Paris) thì thần El được tôn thờ bởi các sắc dân Canaanites và Semites. El cũng được coi là vua của các dòng sông (king of rivers) là thần mặt trời (the Sun God) và cũng là Thiên Chúa Tối cao (the Supreme God).
Các giống dân Canaanites và Semites thờ thần El dưới tượng của một con bò đực. Đối với họ, con bò đực là biểu tượng của sức mạnh . Cũng vì vậy, mỗi khi nói đến thần El họ thường gọi Ngài là Bò Thần El (Bull-El). - The Encyclopedia of Middle Eastern Mythology and Religion (Bách khoa Tự điển về Huyền thoại và Tôn giáo vùng Trung Đông, của Jan Knappert, element 1993). Tác giả là một người Ả rập rất rành về các ngôn ngữ Ả rập, trong đó có ngôn ngữ Sumerian là ngôn ngữ chính của xứ Babylon vào thời cổ xưa cách đây nhiều ngàn năm.
Theo sự nghiên cứu của tác giả, tên của xứ Babylon cũng do tên của thần El mà ra. El là danh từ theo tiếng Hebrew. Người Ả rập gọi El là Il. Khi đổi ra số nhiều Il thành Ilun. Người xứ Babylon rất tự hào về đất nước của họ và họ tự coi đất nước của họ là “cái cổng của Thiên Chúa”. Theo ngôn ngữ Sumerian thì “Bab” là cổng và “Ilun” là Thiên Chúa. Ghép hai chữ này lại sẽ thành “Babilun”, về sau người ta đọc trại đi thành Babylon. Như vậy, chữ Babylon có nghĩa là “cái cổng của nhà Chúa” (Gate of God).
Tại các thành phố thuộc xứ Babylon người ta thường làm lễ tế thần El với những lời ca tụng ngài là “Thiên Chúa hiện thân thành Con Bò” (The Bull-God). Theo niềm tin của người Babylon, thần El là vị chủ tọa các hội đồng thần thánh ở trên trời, là đấng tạo hóa đã sinh ra vũ trụ vạn vật và là đấng đã tạo dựng nên con người. - Near Eastern Mythology (Huyền thọai vùng Cận Đông, tác giả John Bray, nxb Peter Bedrick Book NY 1985, các trang 68-69):
El là vị thần chính yếu được tôn thờ tại vùng Lưỡng Hà Châu. Theo các huyền thoại của vùng Canaan (giữa sông Jordan và Địa Trung Hải) thì thần El là một con bò đực (Bull) có sức mạnh vô song và sức sáng tạo vô bờ bến. Vì vậy, thần El là “đấng Tạo hóa của mọi vật thụ tạo” (Creator of all created things).
Như trên đã trình bày là Môi-Sứt ra lệnh cấm thờ thần El vào năm 1250 TCN nhưng đến thế kỷ 10 và 9 TCN, các vua và dân Do Thái vẫn tiếp tục thờ thần El với hình tượng bò vàng (1 King 12:28).
Trong cuốn sách này, tác giả cung cấp cho chúng ta thêm một chi tiết là đến thế kỷ 6 TCN, tức 700 năm sau khi Môi-Sứt ra lệnh cấm gọi tên thần El, vị tiên tri rất nổi tiếng của Do thái là Ezekiel đã cầu nguyện Thiên Chúa bằng tên El. Lời cầu nguyện như sau:
“Lời của Ngài, ôi Thiên Chúa El, là khôn ngoan. Ngài là đấng khôn ngoan muôn đời”
(Thy word, oh El, is wise Thou art eternally wise, Ezekiel 28:2-10)
Những điều ghi chép rành rành trong các sách Genesis, Exodus, Kings và Ezekiel (trong bộ Thánh kinh Cựu ước) đã chứng tỏ rằng: Dù trước Môi-Sứt (từ 2000-1250 TCN) hay sau Môi-Sứt (từ 1250 TCN đến Ezekiel thuộc thế kỷ 6 TCN) đạo Do thái vẫn giữ nguyên bản chất của đạo thờ bò El với hình tượng bò vàng. - New Catholic Encyclopedia (Tân Tự điển Bách khoa Công giáo la mã). Đây là bộ tự điển bách khoa vĩ đại gồm 17 tập, ấn bản mới nhất in năm 1981. Thần bò El được trình bày rõ ràng nơi trang 136 của tập 5 như sau: “El là danh hiệu lâu đời nhất để gọi Thiên Chúa. Sách Sáng Thế ký (sách đầu tiên trong bộ Kinh thánh Cựu ước) 28:10-22, 33:20, 49:25 đã đồng nhất hóa El với Elohin và Yaweh (Jehovah). Ý nghĩa chữ El (theo tiếng Hebrew) cũng đồng nghĩa với chữ Ilu theo ngôn ngữ cổ ở Babylon là Akkadian. Tất cả đều do căn ngữ Semistic “Yl”, có nghĩa là “hùng mạnh”. Trong các đền thờ của người Phoenicians, thần El được tôn thờ như Thiên Chúa Tối cao, Đấng sinh ra các vị thần và là Chúa của thiên đàng” (xem tập 5, trang 136)
- A Muslim Primer, tác giả Ira Jeff là một học giả Ả rập Hồi giáo, sách này do Thư viện Quốc hội Mỹ xuất bản, in lần thứ hai năm 1992.
Theo tác giả, cả ba tôn giáo Do thái, Ki tô và Hồi đều có chung một ông tổ là Abraham và đều có chung nguồn gốc về tên gọi Thiên Chúa (sách đã dẫn, trang 31-32).
Tác giả đã dùng Từ Nguyên học (Etymology) và Ngôn ngữ học (Linguistics) để chứng minh rằng: Dù cho tên gọi Thiên Chúa của các đạo độc thần bề ngoài khác nhau: Elohim, Jehovah, Allah nhưng tất cả đều bắt nguồn từ thần EL mà ra.
Các âm I trong tiếng Ả rập biến thành âm E trong tiếng Hebrew (Do thái).
Thí dụ: Ismail = Ismael (Hebrew, con của Abraham); Gabril = Gabriel (thiên thần truyền tin); Mikail = Michael (tổng lãnh thiên thần); Il = El (Bò thần).
Trong ngôn ngữ Arabic, người ta không gọi Thiên Chúa IL (tức El) một cách trống không mà thường thêm mạo tự ‘ah’ ở sau danh từ Il. Do đó, tên của Thiên Chúa Il trở thành Illah (Il + article ‘ah’).
Về ngôn ngữ học, các âm I trong tiếng Arabic khi chuyển sang tiếng Anh hoặc Pháp đều đổi thành A. Thí dụ tên của ông tổ các đạo độc thần trong ngôn ngữ Arabic là Ibrahim, khi chuyển sang tiếng Anh hay Pháp đã trở thành Abraham. Do những biến chuyển của ngôn ngữ, thần bò Il của babylon đã thành Thiên Chúa Elohim và Jehovah của đạo Do thái, tức Chúa Cha của đạo Ki tô. Cũng do biến chuyển của ngôn ngữ, thần bò Il thành Illah trong tiếng Arabic và Allah trong ngôn ngữ Tây phương.
Tác giả viết: “Tên gọi Thiên Chúa là Allah có căn ngữ theo từ-nguyên-học bắt nguồn từ Babylon. Chính cái căn ngữ này đã nối kết cả ba tôn giáo Do thái, Ki tô và Hồi giáo. Căn cứ Il của Babylon đã trở thành El / Elohim trong tiếng Hebrew. Những người Ki tô giáo đầu tiên đã gọi Jesus là Emmanu-El có nghĩa là “Thiên Chúa El ở cùng chúng ta”. El trong tiếng Arabic luôn đi theo với mạo tự “ah” trở thành Il-ah và cuối cùng khi chuyển sang Anh ngữ đã trở thành ALLAH!” (sách đã dẫn, trang 32).