10. Islam của tiến sĩ Ceasar Farrah, giáo sư môn Hồi giáo học tại Đại học Minnesota. Tác phẩm được tái bản lần thứ 6 trong năm 2000. T...
10. Islam của tiến sĩ Ceasar Farrah, giáo sư môn Hồi giáo học tại Đại học Minnesota. Tác phẩm được tái bản lần thứ 6 trong năm 2000. Tác giả là người Ả rập Hồi giáo. Điều đặc biệt tác giả nhấn mạnh trong tác phẩm của ông là bác bỏ quan niệm sai lầm cho rằng Hồi giáo Ả rập đã vay mượn ý niệm về Thiên Chúa của Do thái giáo và Ki tô giáo (Islam, trang 28).
Tác giả chứng minh ngược lại là chính Do thái giáo và Ki tô giáo đã vay mượn ý niệm về Thiên Chúa do sự biến thể của “Allah” là El (Il) Thiên Chúa của đa thần giáo Ả rập. Tác giả viết: “Il-ah hoặc Allah là Thiên Chúa tối cao của bán đảo Ả rập Đa thần giáo. Đối với những người Babylon thì Ngài là Il và sau đó Ngài được biết đến bởi người Do thái với tên của Ngài là El. Những người ở miền Nam bán đảo Ả rập tôn thờ Ngài dưới danh hiệu Illah và người Bedouins lại gọi ngài là Allah. Quan niệm Thiên Chúa của Do thái giáo và Ki tô giáo đã phát sinh từ sự biến dạng của Allah (Il / El) tức Thiên Chúa của tất cả các đạo Độc thần. (Islam, trang 28)
Muhammad và các tín đồ Hồi giáo chấp nhận danh từ Allah để gọi Thiên Chúa, mặc dầu danh từ này là biến thể của tên gọi Bò Thần El, nhưng người Hồi giáo không bao giờ nghĩ rằng Thiên Chúa đã hiện thân thành một con bò đực. Trái lại, lịch sử và các sách Thánh kinh Cựu ước đã chứng tỏ Do thái đã thờ Thiên Chúa dưới hình tượng một con bò bằng vàng từ thời Abraham (2000 TCN) cho đến thời các vua David, Solomon (thế kỷ 10 TCN) và vua Jeroboam I (thế kỷ 9 TCN). Cũng có thể đạo thờ bò El đã kéo dài đến đời tiên tri Ezekiel vào thế kỷ 6 TCN. Như vậy, đạo thờ bò El đã tồn tại ở Do thái trong một thời gian rất dài, từ 1000 đến 1400 năm!
Đây chính là lý do khiến cho Muhammad đã chê trách dân tộc Do thái trong kinh Koran như sau: “Những tín đồ của các sách Kinh thánh - tức dân Do thái – đòi hỏi anh phải đưa cho họ một cuốn sách mang từ trên trời xuống, nhưng rồi họ đã tôn thờ con bò vàng thay vì thờ Thiên Chúa.” (Kinh Koran 4:153)
Lịch sử Do Thái ghi nhận: Trong Vương quốc Judah là một vương quốc bao gồm lãnh thổ Do thái và những vùng khác từ Biển Chết đến Địa Trung hải (931-586 TCN) rất thịnh hành đạo thờ thần Molech. Đây là một biến thể của đạo thờ bò vì tượng thần có thân hình người nhưng đầu của vị thần là đầu bò. Mỗi khi tế lễ thần Molech, nhưng vật hy sinh để dâng lễ luôn luôn là những đứa bé sơ sinh vô tội. Đứa bé được đặt vào hai bàn tay của thần bằng kim loại đã được đun nóng từ bên trong. Đứa bé và cha mẹ nó la thét thảm thiết nhưng tất cả đều bị át đi bởi những tiếng kèn, trống và phèn la khua lên inh ỏi.
Sau khi thịt của đứa bé đã bị nướng chín trên hai bàn tay của thần (thực chất là hai cái chảo bằng kim loại) đám thầy cúng và con chiens chia nhau ăn thịt người giống như đám chủ chăn và con chiens Kito ăn "bánh thánh" ở nhà thờ ngày nay.
Như chúng ta đã biết, bó thần El chính là Thiên Chúa Elohim hoặc Jehovah của đạo Do thái. Jesus luôn luôn gọi Thiên Chúa Jehovah của đạo Do thái là CHA. Jesus dạy các môn đệ đọc kinh cầu nguyện Jehovah bằng kinh “Lạy Cha”.
Trước khi chết trên thập giá, Dê Sù (Jesus) đã than trách Dê Hô Va (Jehovah): “Cha ơi, sao cha bỏ con!”. Chính vì Dê Sù xác nhận Dê Hô Va là Cha nên con bò đực El đã trở thành Đức Chúa Cha của đạo Ki tô (bao gồm Kito giáo La mã, Anh giáo, Chính thống giáo và các hệ phái phản thệ). Mặc dầu các đạo thờ Chúa đều là những biến dạng của đạo thờ bò, nhưng Kito La mã đã thừa kế nhiều nhất những quan niệm và nghi lễ dã man của đạo này. Vì vậy, Kito giáo La mã rất xứng đáng được tuyên xưng là “Đạo Thờ Bò Cải Biến” tiêu biểu trong thời đại hiện nay.
Levitica 17:11 (Cựu ước) và Hebrew 9:22 (Tân ước) đều ghi: “Sự đổ máu là điều bắt buộc để được tha tội” (Shedding of blood is required to be forgiven of sins).
Từ thời Abraham, qua thời Moses cho đến nhiều thế kỷ về sau, người Do Thái luôn luôn tế lễ Thiên Chúa Jehovah bằng máu sinh vật. Việc giết sinh vật để thờ Chúa là điều bắt bắt buộc trong luật Torah của Moses. Sinh vật bị giết để lấy máu rưới lên bàn thờ, thịt của chúng bị đốt để tạo “mùi hương dịu dàng dâng lên Thiên Chúa” (Sweet scent to God – Exodus 29:18, Leviticus 1:9).
Theo “Tự điển về Kinh thánh” (Bible Dictionary của tập thể 193 tác giả thuộc mọi tôn giáo, nhà Harper Collins xuất bản lần đầu 1946, tái bản 1971, trang 694) : Dân Do thái thờ thần Molech đầu bò trong những năm từ 735 đến 575 TCN. Mỗi khi làm lễ tế thần ở thung lũng Hinnon thuộc ngoại ô Jerusalem họ luôn luôn giết trẻ con rồi xe thịt đem nướng chín để làm món ăn tế thần. Tục lệ tế thần bằng thịt con nít được mô tả trong nhiều sách Kinh thánh Cựu ước như Deut. 12:31, Kings 16:3, Jer. 7:31, Ezek. 16:21 và Chron. 28:8.
Thần El cũng như thần Molech đều là những vị thần có hình tượng đầu bò và đều là những vị thần khát máu. Thiên Chúa Jehovah, tức Chúa Cha của đạo Kito giáo, là hậu thân của các ác thần nói trên nên Thiên Chúa Cha cũng giữ nguyên cái bản chất khát máu như vậy.
Con chiens Kito thường đọc kinh ca ngợi Jesus là Con của Thiên Chúa (Son of God) và ca ngợi Jesus là đấng lòng lành vô cùng (Merciful God) nhưng thực ra Jehovah chẳng bao giờ coi Jesus là Con mà chỉ coi Jesus như một thứ ‘súc vật’ bị giết để làm một món barbecue mà thôi. Chính con chiens Kito đã vô tình thừa nhận điều này trong lời kinh cầu nguyện của họ.
Trong các lễ Misa, các con chiens Kito thường đọc câu kinh bề ngoài có vẻ ca tụng Jesus nhưng thực ra là hạ nhục ông ta : “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian...”. Hiển nhiên một điều là Jesus tuyệt đối không có khả năng xóa tội cho bất cứ một ai trên đời này, nhưng câu kinh đó đã xác nhận Jesus chỉ là một thứ ‘súc vật’ để tế thần. Dù là một con chiens thường hay là “Chiens Thiên Chúa” (Lamb of God) thì cũng chỉ là Con của Chúa Cha Jehovah thì Chúa Cha là một thứ ma-cà-rồng hoặc một thứ ác quỉ. Nếu Jehovah không phải là một thứ ác quỉ hay ma-cà-rồng thì tại sao nó lại ăn thịt con trai nó là Jesus?
Một trong những cuốn sách nghiên cứu dầy công về Kito giáo là cuốn Babylon Mystery Religion của Hội nghiên cứu Thánh kinh Raph Woodrow ở California. Hội này đã cho xuất bản và phát hành tới 600.000 bản in sách nói trên. Trọn chương 7, từ trang 115 đến 126, tác giả chứng minh nghi lễ của Kito giáo hầu như đã bắt chước trọn vẹn những nghi lễ của các đạo thờ bò của xứ Babylon thuở xưa. Một trong những nghi lễ dã man nhất là tế thần bằng các trinh nữ hoặc các bé trai đầu lòng. Các nạn nhân đều bị giết và bị nướng chín (burnt offerings) để dâng lễ tế thần rồi sau đó đám thầy cúng và con chiens chia nhau ăn thịt nạn nhân.
Trong nghi lễ ở nhà thờ Kito, các chủ chăn và con chiens chia nhau ăn bánh thánh và uống rượu nho mà họ tin rằng đó là thịt thật và máu thật của Jesus. Dù chỉ là ăn thịt uống máu người tưởng tượng một cách ngây ngô ngớ ngẩn như vậy nhưng những hành vi ấy cũng đủ cho ta thấy tâm hồn của những con chiens Kito là tâm hồn của những kẻ bán khai, vì chỉ những kẻ bán khai mọi rợ mới ham thích ăn thịt uống máu người như vậy mà thôi.
Cái gọi là “Phép Bí-tích Mình Thánh Chúa” là một dấu ấn đậm nét chứng tỏ Kito là một thứ đạo thờ thần bò Molech trong thời hiện đại.
Tập thể con chiens Kito chẳng khác gì một bộ lạc của giống mọi ăn thịt người sống lạc lõng trong xã hội văn minh của loài người chúng ta. Để giúp cho 7% đồng bào của chúng ta thoát khỏi vùng bóng tối tâm linh (spriritual darkness) chúng ta cần phải gia tăng công tác giáo dục. Một trong những điều quan trọng của sự giáo dục là cần phải vạch rõ cho họ thấy rằng: Kito giáo không phải là một lọa tôn giáo cao quí đáng hãnh diện, cũng chẳng phải là “Đạo Thánh của Đức Chúa Trời” như họ lầm tưởng, Kito giáochỉ là hậu thân của đạo thờ bò cải biến còn tồn tại trong thời đại hiện nay.
Theo Thi Nguyen