Hiện trạng của Ki Tô Giáo suy sụp như vậy, nhưng chúng ta không hi vọng là Ki Tô Giáo sẽ biến mất trên thế gian. Tại sao? Cách đây trên một ...
Hiện trạng của Ki Tô Giáo suy sụp như vậy, nhưng chúng ta không hi vọng là Ki Tô Giáo sẽ biến mất trên thế gian. Tại sao?
Cách đây trên một thế kỷ, Robert G.. Ingersoll đã nhận định về sự tồn tại lâu dài của Tin Lành và Ca-tô Rô-MaGiáo như sau (Joseph Lewis, Ingersoll: The Magnificient, p. 140):
Ca-Tô Rô-Ma Giáo còn tồn tại lâu dài. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ rằng quần chúng thì ng-u muội (ignorant)và các linh mục thì x-ảo quyệt [cunning]. [Roman Catholicism dies hard. What does that prove? It proves that the people are ignorant and that the priests are cunning]; Đạo Tin Lành còn tồn tại lâu dài. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ là quần chúng thì mê tín và các mục sư thì đần đ-ộn (stupid) [ Protestantism dies hard. What does that prove? It proves that the people are superstitious and the preachers stupid.]
Robert G. Ingersoll được coi như là một nhà tư tưởng tự do và nhà hùng biện nổi danh của Mỹ vào cuối thế kỷ 19 (A celebrated orator of 19th century America). Ông ta là bạn của 3 Tổng Thống Hoa Kỳ, là người đã có công nhất trong việc làm nở rộ quyền tự do tư tưởng ở Hoa Kỳ. (A personal friend of three U.S. presidents, the individual most responsible for the flowering freethought in the United States.). Bức tượng của ông, ghi công ông, nay được đặt ở Periora, Illinois.
Nhận định của Robert G. Ingersoll có đúng hay không? Chúng ta hãy đọc thêm vài nhận định khác của giới thức giả Tây phương.
1. Malachi Martin, một nhà thần học nổi tiếng, đã từng là giáo sư của Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh ngay tại Vatican, đã viết như sau trong cuốn The Keys Of This Blood:
“Trong hầu hết các nước ở Âu Châu, chủ thuyết thế tục hầu như đã toàn thắng. Trong vùng này, các tôn giáo có tổ chức -Ca Tô, Tin Lành và Do Thái - được coi như là giống nhau ở điểm cùng nhấn mạnh trên sự trông cậy vào những quyền lực tuyệt đối. Do đó, những tôn giáo này được coi như là đóng góp rất ít hoặc không đóng góp gì cho đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa hiện thời của các nước Tây Âu…Giáo hoàng (JPII. TCN) biết rất rõ rằng, trong thế kỷ tới, Ca Tô Giáo sẽ chỉ còn tồn tại ở các nước trong thế giới thứ ba. Từ bao giờ, Ca Tô Giáo chỉ nẩy nở trong đám dân chúng nghèo khổ và ít học. Tây phương phức tạp không còn tiếp nhận sự hẹp hòi của Ca Tô giáo nữa. Giáo hoàng biết rõ như vậy.”
(In most European countries, secularism has already triumphed completely. In that region, organized religions - Catholic, Protestant and Jewish - are regarded as alike in their insistence to absolutes.. They are considered to have little or nothing to contribute, therefore, to the current political, economic and cultural life of Western European countries… The pope is well aware that, in the next century, Catholicism will survive only in Third World countries. Catholicism has always flourished only in poor population of low educational quality. The sophisticated West can take Catholicism’s narrowness no longer.. The pope realizes that.)
2. Adrian Pigott, một học giả Ca-Tô, đã viết như sau trong cuốn Freedom’s Foe - The Vatican (Vatican - Kẻ Thù Của Tự Do):
“Những tín đồ Ca Tô…được nuôi nấng trong cái mà Tiến Sĩ Barnado gọi là “Bóng tối dày đặc của ý thức hệ La Mã”.. Thất học luôn luôn thịnh hành trong các nước theo Ca-Tô Rô-ma Giáo - nhờ đó mà tập đoàn linh mục có thể phồn thịnh.”
(Roman Catholics...have been brought up in what Dr Barnado called “The thick darkness of Romanism”..Illiteracy is always prevalent in Romanist countries - to enable Priestcraft to flourish.)
3.. Linh mục Joseph McCabe, trong cuốn Rome Puts A Blight on Culture (La Mã Đặt Sự Hủy Hoại Trên Văn Hóa), đã để ra nguyên một chương phân tích ảnh hưởng của Ca-tô Rô-ma Giáo trên các nền văn hóa với kết luận:
“La Mã chỉ khoái những kẻ thất học. Họ bị thuyết phục quá dễ dàng để đi thiêu sống những kẻ “lạc đạo” và hôn hít những thánh tích giả mạo”.
(Rome loves the illiterate. They are so easily persuaded to burn “heretics” and kiss bogus relics..)
4. Cách đây hơn 100 năm, Toàn Quyền Đông Dương J. L. de Lanessan, trong cuốn Les Missions et leur Protectorat, trích dẫn bởi, Patrick J. N. Tuck, đã nhận xét về thực trạng truyền giáo ở Á Đông như sau:
“Thật ra, trong hơn 2 thế kỷ mà các hội truyền giáo Ca Tô hoạt động ở Trung Hoa và bán đảo Đông Dương có lẽ họ không cải đạo được quá 10 học giả. Toàn thể giới trí thức cầm quyền của dân chúng đã tránh né sự truyền đạo của họ. Đại cương thì các nhà truyền giáo chỉ tuyển mộ được tín đồ trong những giai cấp thấp nhất, và phần lớn là những kẻ, vì những lý do này nọ, đã bị xã hội An-Nam ruồng bỏ.”
(In fact, during the two centuries and more that the Catholic Missions have been operating in China and the Indochinese peninsula, they have probably not converted mre than ten scholars in all. The entire educated and governing class of the population has evaded their proselytism. In general Catholic missionaries only recruit from among the lowest classes, and mainly among those who, for various reasons have been rejected by Annamese society.)
5. Trong bài “Phật Giáo và Người Việt Nam Hiện Đại”, Như Hạnh chuyển ngữ, Tiến sĩ J. C. Cleary, tốt nghiệp đại học Harvard về Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông Phương, đã nhận xét như sau:
“Người Việt Nam hẳn sẽ ngạc nhiên khi khám phá ra rằng đối với những người Tây phương có đầu óc tiến bộ, chính Thiên Chúa Giáo mới là một mớ huyền thoại lỗi thời, mê tín dị đoan, và những nghi lễ vô nghĩa lý… Ở Tây phương, phần đông các tín đồ Thiên Chúa Giáo sùng tín thường là những kẻ ít học nhất, những thành phần thấp, kém kinh tế trong quần chúng, những kẻ chẳng còn có gì để mà trông ngóng nữa cả.”
6. Và nữ học giả Ca Tô Joane H. Meehl, sau khi đã nhìn thấy rõ chủ đích và những việc làm của giáo hội Ca Tô từ thế kỷ 4 cho tới ngày nay, đã viết trong cuốn Người Tín Đồ Ca Tô Tỉnh Ngộ (The Recovering Catholic, Prometheus Book, 1995), trang 288:
“Đạo Ca Tô chỉ thịnh hành và phát triển trong đám người nghèo và ngu dốt. Nó chỉ bị khắc phục bởi giáo dục (mở mang dân trí. TCN) và đời sống kinh tế thoải mái.”
(Catholicism thrives and grows among the poor and ignorant. It is overcome by education and economic well-being.)
Từ những tài liệu trên, chúng ta đã có thể nhận định đúng vấn đề. Ki tô giáo còn tồn tại là vì trên thế giới số người ngu muội và mê tín còn nhiều, và số người có đầu óc xảo quyệt cũng như những kẻ ở lớp trên nhưng đần độn cũng vẫn còn nhiều. Điều rõ ràng là, vũ khí hữu hiệu nhất để chống lại âm mưu bành trướng của Ki Tô Giáo sang Á Châu là mở mang dân trí. Samuel Butler đã từng nhận định rất chính xác như sau: “Người Ca-tô không sợ bất cứ gì khác mà chỉ sợ có sự thật.” và đây chính là “tử huyệt” của Ca-tô Rô-ma Giáo.
Đọc trên diễn đàn hải ngoại, chúng ta thấy rõ điều này. Trước những bài nghiên cứu nghiêm chỉnh về những sự thật trong Ca-tô Rô-ma Giáo của các học giả Tây phương, trong đó có nhiều bậc lãnh đạo trong Ca-tô Giáo, người Ca-tô Việt Nam luôn luôn chống đỡ, không phải qua phê bình đối thoại trí thức, mà bằng những luận điệu chụp mũ như “phá đạo”, “gây chia rẽ tôn giáo”, “theo sách lược chống Ca-tô của CS”, “vi phạm tự do tín ngưỡng”, “thù hận Công giáo” v.v... hòng bịt miệng những người viết ra những sự thật về Ca-tô Giáo. Có người còn làm ra vẻ cao cả, nhưng thực ra chỉ là mê sảng “cầu Chúa soi sáng cho TCN và NMQ ” trong khi thực sự họ không hề biết Chúa là cái gì, có thật hay không, và nếu có thì chính họ mới cần Chúa soi sáng cho. Nhưng, như nhận định của Giám mục John Shelby Spong và Jim Walker, Russell Shorto ở trên, thì Chúa chỉ là một người Do Thái thường, sống với một ảo tưởng, và bản chất của Chúa chỉ là một con người thiển cận, đầy h-ận th-ù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả, vậy thì có thể soi sáng cho ai?
Sự khắc phục Ca Tô Giáo đã xảy ra trong những nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ, trong đó đời sống vật chất của con người tương đối cao, và những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về tôn giáo của những người có uy tín trong giới trí thức như lãnh tụ tôn giáo, học giả, chuyên gia, giáo sư đại học v..v.. được phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Chúng ta không bao giờ nên e ngại trước những sự phản đối vô căn cứ, lên án việc mở mang dân trí là chống tôn giáo hay chia rẽ tôn giáo.. Sự hòa hợp giữa những khối dân có tín ngưỡng khác nhau trong những quốc gia tân tiến Âu Mỹ, nơi đây các tác phẩm nghiên cứu về tôn giáo được phổ biến tự do và rộng rãi, là một bằng chứng rõ rệt nhất về lợi ích của việc mở mang dân trí để cho người dân biết rõ sự thật về các tôn giáo trong xã hội.
Cho nên, những sự thực về lịch sử những t-ội á-c của Ca Tô Giáo, về tổ chức độc tài của Giáo hội, về những thần quyền tự phong của giới lãnh đạo Ca Tô, cùng những tín điều hoang đường phi lô-gic, phi lý trí, phản khoa học, huyền hoặc, lỗi thời v..v.. của Ca Tô Giáo phải được nghiên cứu cẩn thận và phổ biến rộng rãi.
Thứ đến, giáo hội Phật Giáo và người Phật tử phải đóng góp tích cực trong đối sách này và đồng thời nên phát huy Phật Pháp cũng như góp sức trong chính sách phát triển kinh tế nước nhà, để cho toàn dân có được một đời sống vật chất thoải mái hơn.