7. Hành vi hiếp dâm trẻ em của các giáo sĩ Ca tô Vatican đã giấu diếm, bao che cho những linh mục phạm tội hãm hiếp trẻ em một cách có hệ ...
7. Hành vi hiếp dâm trẻ em của các giáo sĩ Ca tô
Vatican đã giấu diếm, bao che cho những linh mục phạm tội hãm hiếp trẻ em một cách có hệ thống, có tổ chức trong một thời gian dài, cho mãi đến năm 1980 khi bị báo chí phanh phui trước công chúng.
Đặc biệt, vào năm 2002 có 5 giáo sĩ bị truy tố về tội hãm hiếp nghiêm trọng. Một trong số người bị truy tố có linh mục John Geoghan đã hãm hiếp khoảng 130 trẻ em cho đến khi bị truy tố. Tuy nhiên, trong suốt thời gian dài phạm tội, linh mục bề trên của J. Geoghan đã bao che coi như không biết. Thay vì báo cáo với cảnh sát thì lại thay đổi chức vụ và chỗ làm việc của linh mục để hòng che dấu. Cũng vì lý do này mà tội ác của các linh mục Ca tô cứ tiếp tục lập đi lập lại.
Gần đây, có linh mục Lawrence Murphy đã bị điều tra về tội đã cưỡng dâm khoảng 200 trẻ em khiếm thính trong suốt thời gian từ năm 1950 đến 1974. Phía Giáo hội Ca tô đã cho điều tra nội bộ, nhưng sau đó đã không kết tội và và trừng phạt L. Murphy, mà ngược lại, cho ông này một thời gian nghỉ dưỡng. Đến năm 1996, giáo hội Ca tô đã không công bố kết quả điều tra, lấy lý do L. Murphy đã già yếu nên không kết tội, mà còn khắc trên mộ của ông sau khi ông chết vài tháng sau đó dòng chữ “The full dignity and honors of a Holy Roman Catholic Priest in good standing”, vinh danh nhân phẩm và danh dự của một linh mục Ca tô La mã đã từng ấu dâm trẻ em khiếm thính.
Tháng 2 năm 2014, Liên Hiệp Quốc đã mở hội nghị do Ùy Ban Bảo Vệ Nhân Quyền Cho Trẻ Em đã xác nhận có âm mưu che dấu có tổ chức của Vatican đối với những hành vi hiếp dâm của các linh mục và yêu cầu Vatican phải chịu trách nhiệm về hàng ngàn trẻ em đã bị các linh mục cưỡng dâm. (Thông tin liên quan: http://www.huffingtonpost.jp/2014/07/15/pope-francis-says-of-clergy-are paedophiles_n_5586706.html, Huff Post, Jul 15th, 2014.)
Theo báo La Repubblica thì Giáo hoàng Francis đã công bố rằng có khoảng 2% giáo sĩ Ca tô mắc bệnh ấu dâm. Công bố của Francis được cho là đã dựa vào kết quả điều tra của cơ quan Giáo hội, đã gây xôn xao và làm kinh ngạc công chúng. Giáo hoàng nói thêm rằng, tình trạng ấu dâm trong giới giáo sĩ không thể tha thứ được. Ấu dâm như căn bệnh truyền nhiễm đang xâm nhập và lây nhiễm trong giáo hội. Vì vậy, cần phải nhìn thẳng sự thật để chỉnh sửa bằng thái độ nghiêm chỉnh.
Gần đây, Hồng y George Pell, là Hồng y có địa vị thứ 3 trong Giáo hội đã bị cảnh sát bang Victoria của Úc khởi tố về tội tình nghi cưỡng dâm, lạm dụng tình dục nhiều lần. G. Pell là lãnh đạo tối cao của Giáo hội Ca tô tại Úc, kiêm chức bộ trưởng tài chánh của Giáo hội. Đồng thời, ông cũng là một cố vấn cho Giáo hoàng. Ông là nhân vật được cho là cao cấp nhất trong danh sách các giáo sĩ ấu dâm của Giáo hội Ca tô đã bị đưa ra ánh sáng. Theo báo Sydney Morning Herald thì G. Pell đã vi phạm ít nhất 3 vụ tấn công tình dục, trong đó có một vụ hiếp dâm. G. Bell sinh năm 1941 tại Victoria, Australia. Ông đã tu học tại Vatican cho đến năm 1966 được bổ nhiệm làm linh mục.
Năm 2003 G. Pell được Giáo hoàng đương thời là John Paul II đề bạt làm thành viên của đoàn Hồng y phụ tá Giáo hoàng.
Vụ việc Hồng y George Pell bị cảnh sát điều tra vi phạm tình dục đã được báo chí đưa tin lần đầu tiên vào năm 2017. Trong giai đoạn điều tra thì Giáo hội Ca tô luôn khẳng định G. Pell vô tội. Trước Ủy Ban Hoàng Gia điều tra tội ấu dâm, Giáo hội Ca tô tại Úc đã 3 lần làm nhân chứng đều khẳng định là không có việc ấu dâm của giáo sĩ.
Cho đến khi sự việc được đưa ra ánh sáng với chứng cứ rõ ràng không thể chối cãi được, và Giáo hội Ca tô bị chỉ trích là đã cố ý che dấu tội ác này thì người đại diện Giáo hội lại thay đổi thái độ, chấp nhận đây là “hành vi sai phạm nghiêm trọng”.
Theo ABC (Hiệp Hội Truyên Thông Úc) thì Ủy Ban Hoàng Gia đã bắt đầu điều tra vụ án đã xảy ra tại thị xã Ballarad, tiểu bang Victoria vào những năm 1970, trong đó có tình nghi tội ấu dâm của giáo sĩ làm việc tại chủng viện. Nhưng trong khi điều tra thì Giáo hội Ca tô luôn tìm cách che dấu không báo cáo Ủy Ban Hoàng Gia. Đối với những nạn nhân bị hiếp dâm thì Giáo hội đã hối lộ để bịt miệng họ. Cùng thời điểm xảy ra những vụ ấu dâm thì G. Pell cũng đang sinh sống trong chủng viện này nên đã bị điều tra.
George Pell là cố vấn của Giáo Hoàng Francis, là giáo sĩ cao cấp của Giáo hội Ca tô đã bị khởi tố về tội ấu dâm sau năm tháng dài được Vatican che dấu. Thật khủng khiếp cho tội phạm tình dục trong phòng kín.
8. Cưỡng bức lao động và lạm dụng tình dục trong trại giam tập trung Magdalene.
Với lý do cấm đoán của đạo Ca tô liên quan đến tình dục, Giáo hội Ca tô La mã đã tìm bắt những cô gái bán dâm và các phụ nữ bị tình nghi loạn luân (thông dâm) nhốt vào trại tập trung Magdalene tại Ái Nhĩ Lan (Ireland), do Giáo hội quản lý. Thời kỳ đầu, Giáo hội nêu lý do bắt giữ các phụ nữ này là để điều trị tâm thần cho những phụ nữ đã mang tội nặng do loạn luân gây ra. Các phụ nữ bị bắt giữ trong trại tập trung phải làm lao động nặng nhọc như nô lệ, tuần làm 7 ngày không nghỉ ngơi, như giặt giũ, làm vệ sinh và nhiều phục dịch khác. Một phần tài chánh thu nhập từ dịch vụ giặt giũ được xung vào quĩ của Giáo hội Ca tô. Các phụ nữ trong trại bị đối xử ngược đãi, ăn uống thiếu thốn, và dĩ nhiên bị hãm hiếp tình dục.
Có khoảng 30 ngàn phụ nữ phục dịch trong trại cưỡng chế tập trung này. Trại được thành lập vào thế kỷ 18 và hoạt động đến cuối thế kỷ 20, cho đến khi sự việc được báo chí đưa ra ánh sáng vào năm 1993, sau khi 155 thi thể được tìm thấy trong một hố chôn tập thể tại phía bắc của nước này. Quản lý của trại không hề liên lạc với gia đình nạn nhân, cũng như tòa thị chính về danh tánh những người đã chết, mà bí mật mang đi chôn. Trong 155 thi thể, không có một thi thể nào có giấy chứng nhận tử vong.
Mãi đến năm 2013, do yêu cầu của Ủy Ban Thực Thi Điều Khoản Cấm Tra Tấn của LHQ (The Committee Against Torture (CAT), chính phủ Ái Nhĩ Lan mới chính thức chi 45 triệu Đô la để bồi thường cho những nạn nhân còn sống sót.
9. Vatican hỗ trợ cho các tội phạm chiến tranh của phát xít trốn ra nước ngoài.
Sau khi chính quyền phát xít Đức tan rã, có rất nhiều tội phạm chiến tranh của phát xít tìm cách trốn thoát từ các nước Âu Châu ra nước ngoài để tránh bị truy tố trước tòa án. Những người này được các giáo sĩ Ca tô hướng dẫn, hỗ trợ đắc lực. Người chủ đạo trong vụ việc này có Hồng y Alois Houdal. Vào năm 1944, Alois Houdal đã viếng thăm trại giam tội phạm chiến tranh phát xít của Liên hợp quân với danh nghĩa là viếng thăm có tính tôn giáo. Trên thực tế, nhân chuyến viếng thăm này ông đã họp bàn kế hoạch cho tội phạm chiến tranh trốn thoát an toàn. Kế hoạch đào tẩu được mệnh danh là Rat Lines, hướng về các nước Nam Mỹ.
Những tội phạm được cấp hộ chiếu của Vatican, dưới danh nghĩa là giáo sĩ hoặc thành viên của Vatican. Vì vậy, hầu hết đều được trốn thoát đến nơi dự định an toàn.
Có một tội nhân phạm tội ác nghiêm trọng là Franz Stangl, cho đến khi bị bắt tại Brazil vào năm 1967 đã sống ung dung dưới sự bao che của Vatican. Ông này là nhân vật đã bị truy tố với tội danh đã chỉ huy giết một lượng lớn khoảng 900 ngàn người Do Thái.
Hồng y Alois Hudal | Franz Stangl
Ngoài ra, các linh mục Croatia đã theo học trường Thần học Ca Tô tại Vatican hỗ trợ các đảng viên đảng Utasha, là đảng của chính quyền bù nhìn cho phát xít Đức đương thời trốn thoát khỏi Châu Âu, dưới sự chỉ huy của linh mục Krunoslav Dragavovic. Kẻ sát nhân tập thể nổi tiếng ở Lyon là Klaus Barbie cũng trốn thoát nhờ sự trợ giúp này. Số phạm nhân chiến tranh phát xít được Vatican hỗ trợ để trốn khỏi Âu Châu được đánh giá ít nhất là 9000 người.
(còn tiếp)